Sức mạnh Nhân dân làm nên lịch sử
- Cách đây 80 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã đoàn kết một lòng đứng lên Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do. Cách mạng tháng Tám thành công, khẳng định sức mạnh của quần chúng nhân dân làm nên lịch sử, đồng thời cũng khẳng định nghệ thuật đỉnh cao của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tập hợp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.

Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của cách mạng Việt Nam. Chánh cương vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác định nhiệm vụ: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Nhằm thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định nhiệm vụ hàng đầu là quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ sức mạnh của quần chúng nhân dân, các giai tầng trong xã hội, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc.
Sức mạnh đoàn kết trong cách mạng tháng Tám
Tháng 10/1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp tại Hương Cảng (Hồng Công - Trung Quốc) thông qua Luận cương chính trị và nhiều văn kiện quan trọng. Luận cương đề ra chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng, xác lập mối liên minh, đoàn kết các lực lượng phản đế, phản phong trong đó, khẳng định: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh. Nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”.
Trên cơ sở đó, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị về vấn đề thành lập Hội "phản đế đồng minh", trong đó nêu rõ tầm quan trọng của liên minh công nhân với nông dân trong cuộc cách mạng đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến phản cách mạng, sự cần thiết thực hiện khẩu hiệu chia ruộng đất cho dân cày thì cách mạng mới nhận được sự hưởng ứng của nông dân.
Trong những năm 1936-1939, Đảng tiếp tục khẳng định: “Không có thần thánh nào có thể giải phóng chúng ta khỏi ách nô lệ! Chỉ có lực lượng đoàn kết của chúng ta và hành động cách mạng mới đánh đổ được nền chuyên chế và phong kiến”. Trước những thay đổi của tình hình từ sau phong trào Đông Dương Đại hội, Nghị quyết toàn thể Hội nghị của Ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3/1938) chủ trương phải tăng cường, xây dựng khối đại đoàn kết thông qua việc xây dựng, phát huy vai trò của Mặt trận, cần phải “dùng hết phương pháp làm thế nào cho thực hiện được Mặt trận dân chủ, ấy là công cuộc của Đảng ta lúc này”. Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đoàn kết các dân tộc, các giai cấp, các đảng phái, các phần tử có tính chất phản đế” trong đó lực lượng chính là công nông, dựa vào tầng lớp trung sản thành thị, nông thôn, đồng minh trong chốc lát hoặc trung lập giai cấp tư sản bản xứ, trung tiểu địa chủ và phải đặt dưới quyền chỉ huy của vô sản giai cấp.

Tháng 5/1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì quyết định cần phải thay đổi chiến lược, phải xem nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng và của cách mạng Đông Dương. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh). Bằng những chủ trương đúng đắn của Đảng, chỉ trong thời gian ngắn dưới ngọn cờ cứu quốc của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã quy tụ, tập hợp, phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc.
Đầu tháng 8/1945, tình hình thế giới, đặc biệt là Chiến tranh thế giới thứ 2 diễn ra theo chiều hướng có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đảng ta đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhận thấy thời cơ ngàn năm có một, với sự chuẩn bị lực lượng kỹ càng, đã phát động Tổng khởi nghĩa tháng Tám, giành chính quyền trên toàn quốc. Chỉ trong vòng 15 ngày cuối tháng 8/1945, cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám đã giành thắng lợi hoàn toàn, chính quyền trong cả nước về tay Nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Nhân dân là trung tâm
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của sự thống nhất “ý Đảng, lòng dân”, của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, vai trò to lớn của sức mạnh Nhân dân. Gần 40 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sức mạnh của quần chúng Nhân dân ngày càng được Đảng phát huy trên mọi lĩnh vực.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp của Nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, toàn diện và đồng bộ, càng đòi hỏi sự đổi mới tự thân của Nhân dân; quần chúng Nhân dân cũng phải tự đổi mới, nâng cao trình độ, đổi mới nhận thức và hành động. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của các tầng lớp Nhân dân, để Nhân dân nâng cao năng lực làm chủ. Đây cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
|
Năm 1986, khởi đầu công cuộc đổi mới đất nước, Đại hội VI của Đảng đúc kết 4 bài học kinh nghiệm có ý nghĩa sâu sắc, chỉ đạo sự nghiệp đổi mới, trong đó, bài học hàng đầu là “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ chủa nhân dân lao động”. Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bài học kinh nghiệm “lấy dân làm gốc” của Đại hội VI được Đại hội VII (1991) của Đảng tiếp tục khẳng định trong bài học kinh nghiệm thứ hai của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991: “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu mệnh lệnh, xa rời Nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước”. Năm 1996, tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới (1986-1996), Đại hội VIII của Đảng đúc rút sáu bài học kinh nghiệm, trong đó, bài học thứ tư là “Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh của cả dân tộc”, khẳng định “Cách mạng là sự nghiệp của Nhân dân, vì Nhân dân và do Nhân dân. Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của Nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng”.
Sau 20 năm đổi mới, năm 2006, Đại hội lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới phải vì lợi ích của Nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của Nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), rút ra một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Đảng là “Sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân”. Đại hội Đảng lần thứ XII tiếp tục quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm “Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”.
Đại hội XIII (2021) của Đảng nêu rõ: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Lần đầu tiên trong văn kiện Đảng, Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của Nhân dân trong công cuộc đổi mới và đề cao “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”.
Tại Đại hội XIII của Đảng, quan điểm dân là gốc, dân là trung tâm được thể hiện nhất quán, xuyên suốt và bao trùm trong tất cả các văn kiện, trên tất cả các nội dung, lĩnh vực. Từ quan điểm “dân làm gốc” trong lịch sử, được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, các kỳ đại hội của Đảng tiếp tục nhấn mạnh tập trung ở sức mạnh to lớn, nguồn lực vô tận của Nhân dân; Nhân dân là nền tảng, chỗ dựa vững chắc của hệ thống chính trị, lực lượng rộng lớn trong mọi phong trào cách mạng. Trong tiến trình đổi mới, Đảng ngày càng quan tâm đến việc thể chế hóa thành những quy định về quyền làm chủ của Nhân dân; nhấn mạnh về trách nhiệm làm chủ của Nhân dân, đồng thời nêu rõ vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của Nhân dân gắn liền với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tinh thần đổi mới ấy, suy cho cùng là việc khẳng định bản chất “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” trong thời kỳ mới; vị trí trung tâm và vai trò chủ thể có mối quan hệ biện chứng, là bước phát triển mới cả về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn so với vị trí nền tảng và vai trò làm chủ đã được nêu trong suốt tiến trình cách mạng đã qua.
Công cuộc đổi mới là sự nghiệp của Nhân dân, đáp ứng nguyện vọng của Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân, do Nhân dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, toàn diện và đồng bộ, càng đòi hỏi sự đổi mới tự thân của Nhân dân; quần chúng Nhân dân cũng phải tự đổi mới, nâng cao trình độ, đổi mới nhận thức và hành động. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới là cơ sở quan trọng để nâng cao trình độ mọi mặt của các tầng lớp Nhân dân, để Nhân dân nâng cao năng lực làm chủ. Đây cũng chính là cơ sở thực tiễn để Đảng xác định vị trí trung tâm, vai trò chủ thể của nhân dân trong mọi chiến lược phát triển của đất nước trong thời kỳ mới.
Trong 80 năm qua, dù trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử, song những giá trị và tầm vóc vĩ đại của cách mạng tháng Tám ngày càng được khẳng định và có ý nghĩa sâu sắc đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Cách mạng tháng Tám thành công, khẳng định sức mạnh to lớn của quần chúng Nhân dân, là chủ thể của lịch sử, đồng thời, chính họ là những người làm nên lịch sử. Bài học này được Đảng ta vận dụng, phát huy sáng tạo trong công cuộc đổi mới, trong mọi chủ trương, chính sách, Đảng luôn đặt lên hàng đầu lợi ích của dân tộc, của nhân dân, với tinh thần “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Ý kiến ()