Chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 22/8/2025
Văn phòng Chính phủ vừa có Thông cáo báo chí chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ngày 22/8/2025.

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp với Ban Nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân
Văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số 436/TB-VPCP ngày 22/8/2025 thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp với Ban Nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân.
Theo Thông báo, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao sự chuẩn bị của Ban Nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) và các ý kiến góp ý thẳng thắn, sát với thực tiễn của các thành viên tham dự cuộc họp. Thủ tướng Chính phủ ghi nhận và hoan nghênh sự nỗ lực và chủ động của Ban IV trong xây dựng các báo cáo cải cách thủ tục hành chính; tham vấn, đề xuất, tham gia xây dựng cơ chế, chính sách đối với kinh tế tư nhân; góp phần kiến tạo các kênh đối thoại giữa Nhà nước và doanh nghiệp; thúc đẩy hình thành và phát triển mạng lưới doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp.
Nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển kinh tế tư nhân trong tháng 8/2025
Thủ tướng đề nghị các chuyên gia của Ban IV, Hội đồng Tư vấn Chính sách tiếp tục nỗ lực để tư vấn cho Chính phủ trong huy động sức mạnh toàn dân, toàn xã hội, khuyến khích người dân mạnh dạn đầu tư, sản xuất, góp phần phát triển đất nước.
Về Chương trình Toàn cảnh kinh tế tư nhân Việt Nam, Thủ tướng yêu cầu việc tổ chức phải thực chất, hiệu quả, tránh hình thức. Ban IV phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính để làm rõ các nội dung về sáng kiến Toàn cảnh Kinh tế tư nhân Việt Nam, chương trình cần xác định rõ chủ đề, mục tiêu từng năm, lựa chọn công cụ và phương thức tổ chức bảo đảm thành công, huy động sức mạnh tổng hợp. Bộ Tài chính khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ theo nhiệm vụ đã được giao tại công văn số 7408/VPCP-ĐMDN ngày 08/8/2025.
Thủ tướng giao Ban IV nghiên cứu, tìm kiếm các điển hình tốt, mô hình sản xuất kinh doanh hiệu quả; triển khai công tác truyền thông để tôn vinh, khuyến khích học tập, nhân rộng, tạo sức lan tỏa; đồng thời đề nghị các cơ quan truyền thông khác phối hợp triển khai. Việc tôn vinh phải xứng đáng, công bằng và minh bạch, rà soát, thẩm định kỹ lưỡng, tránh tôn vinh mang tính hình thức.
Thủ tướng đề nghị ông Trương Gia Bình, ông Don Lâm cùng thành viên khác của Ban IV nghiên cứu thành lập Quỹ phát triển kinh tế tư nhân. Chính phủ sẽ đồng hành, hỗ trợ trong quá trình xây dựng và vận hành Quỹ nhằm bảo đảm hiệu quả, đúng định hướng. Ban IV báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8/2025.
Xây dựng Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW và môi trường kinh doanh
Về hỗ trợ kinh phí để Ban IV thực hiện các nhiệm vụ được giao, Ban IV thực hiện theo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo kết luận số 421/TB-VPCP ngày 13/8/2025.
Thủ tướng giao Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét các đề xuất của thành viên Ban IV và thành viên Hội đồng Tư vấn Chính sách về đào tạo cho doanh nghiệp về ESG (Environmental, Social, Governance – Môi trường, Xã hội, Quản trị) và ESL (Environmental, Social, Leadership – Môi trường, Xã hội, Lãnh đạo) trong quá trình triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Đồng thời, Bộ Tài chính khẩn trương báo cáo Thủ tướng Chính phủ nhiệm vụ được giao tại công văn số 918/TTg-ĐMDN ngày 01/8/2025 liên quan đến kế hoạch kỷ niệm Ngày Doanh nhân Việt Nam (13/10).
Về Bộ Chỉ số đánh giá hiệu quả triển khai các nhiệm vụ thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW và đánh giá môi trường kinh doanh, Thủ tướng giao Bộ Tài chính xây dựng Bộ chỉ số để đo lường, giám sát việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ để thực hiện Nghị quyết số 68-NQ/TW và đánh giá sự phát triển doanh nghiệp, hộ kinh doanh; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8/2025. Giao Ban IV xây dựng Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá, xác định mức độ thông thoáng môi trường kinh doanh của Việt Nam; xác định các vướng mắc, hạn chế của doanh nghiệp; đảm bảo tính độc lập, khách quan; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8/2025. Các Bộ Chỉ số nói trên cần hướng tới mục tiêu hỗ trợ hiệu quả Chính phủ điều hành dựa trên dữ liệu; góp phần hỗ trợ hiệu quả việc chuyển đổi hộ kinh doanh thành doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ thành doanh nghiệp vừa và lớn, doanh nghiệp lớn mở rộng quy mô, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển dựa trên đổi mới sáng tạo, phát triển xanh, bền vững.
Về tổ chức triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW, Thủ tướng yêu cầu cần có cách tiếp cận mới, có tính đồng bộ, toàn dân, toàn diện, với tầm nhìn toàn cầu; cần đặt việc triển khai Nghị quyết số 68-NQ/TW trong tổng thể sự phát triển của đất nước, trong hệ thống các nhiệm vụ mang tính cách mạng, trụ cột, đột phá, chiến lược theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ. Để Nghị quyết số 68-NQ/TW thực sự đi vào cuộc sống, kinh tế tư nhân cần tăng tốc, bứt phá, thực sự góp phần thay đổi tình thế, chuyển đổi trạng thái; cần có các biện pháp để tháo gỡ các vướng mắc về thể chế; huy động tối đa nguồn lực của toàn xã hội; vận dụng đổi mới sáng tạo, khoa học công nghệ, chuyển đổi số; có giải pháp quản trị và con người thông minh; hạ tầng phải thông suốt. Nhà nước phải giữ vai trò kiến tạo, doanh nghiệp phải đổi mới sáng tạo, góp phần phát triển kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và giám sát của Nhân dân.

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về triển khai chiến dịch xây dựng trường học cho các xã biên giới, bao gồm nhà ở nội trú cho học sinh và giáo viên
Văn phòng Chính phủ vừa có Văn bản số 438/TB-VPCP ngày 22/8/2025 thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp về triển khai chiến dịch xây dựng trường học cho các xã biên giới, bao gồm nhà ở nội trú cho học sinh và giáo viên.
Thông báo nêu: Chủ trương xây dựng trường học tại các xã biên giới theo kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 81-TB/TW ngày 18/7/2025 là một quyết sách lớn, có ý nghĩa chính trị - xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào, chiến sĩ, đặc biệt là các cháu học sinh tại vùng phên dậu của Tổ quốc.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có biên giới phải tập trung chỉ đạo quyết liệt với quyết tâm chính trị cao và hành động quyết liệt, có kế hoạch cụ thể; xác định đây là một chiến dịch cần phải triển khai quyết liệt, khẩn trương với phương châm "khẩn trương, quyết liệt", "chắc chắn", "hiệu quả" quyết tâm hoàn thành việc khởi công xây dựng 100 trường học trong năm 2025 và hoàn thành trước ngày 30/8/2026. Trên cơ sở đó, tiến hành sơ kết, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, mở rộng dần, hoàn thành toàn bộ mục tiêu đề ra tại Thông báo số 81-TB/TW, bảo đảm chất lượng, thời hạn quy định.
Thiết kế trường học theo hướng 'mở', linh hoạt, đa dạng, phù hợp văn hóa dân tộc và điều kiện tự nhiên từng vùng
Thủ tướng giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan khẩn trương tổng hợp, tiếp thu các ý kiến tại cuộc họp, xây dựng dự thảo Nghị quyết của Chính phủ ban hành Kế hoạch hành động thực hiện Thông báo số 81-TB/TW ngày 18/7/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới gửi lấy ý kiến các bộ, ngành, địa phương để hoàn thiện trình Chính phủ; trong đó lưu ý trước hết tập trung vào việc đầu tư xây dựng 100 trường theo kết luận của Bộ Chính trị; quy định rõ ràng, cụ thể các cơ chế, chính sách đặc thù, thủ tục thông thoáng, linh hoạt, đồng thời phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, phòng chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí; giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành và thể hiện rõ một số nội dung cụ thể sau đây:
Quy hoạch mỗi trường phải có diện tích khoảng từ 5 đến 10 hecta, gồm cả khu học tập, nội trú, công vụ, rèn luyện thể chất, sinh hoạt văn hóa và hoạt động trải nghiệm, tăng gia sản xuất. Địa điểm xây trường phải được tính toán để đảm bảo kết nối thuận lợi về mặt giao thông, có đủ hạ tầng thiết yếu đi kèm (điện, nước sạch, nước thải, viễn thông…).
Thiết kế trường học theo hướng "mở", linh hoạt, đa dạng, phù hợp văn hóa dân tộc, địa hình, điều kiện tự nhiên, khí hậu từng vùng, từng địa điểm; ưu tiên cây xanh và giữ cảnh quan tự nhiên, bảo đảm đồng bộ, đầy đủ công năng, hiện đại, bền vững, tuyệt đối an toàn và có thể linh hoạt là trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học, trung học cơ sở, hoặc kết hợp cả cấp trung học phổ thông nếu phù hợp quy hoạch, đặc điểm địa hình và nhu cầu của từng địa phương.
Cho phép áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu linh hoạt để bảo đảm tiến độ, bao gồm chỉ định thầu, giao thầu, giao việc, kể cả tổ chức đấu thầu (nếu phù hợp đáp ứng tiến độ) theo quy định và phải cho giám sát, kiểm tra ngay trước, trong và sau xây dựng.
Ưu tiên bố trí ngân sách trung ương theo tinh thần Kết luận số 81-TB/TW ngày 18/7/2025; đồng thời huy động tối đa nguồn lực xã hội; tạo thành một phong trào thi đua sôi nổi, sâu rộng; huy động sức mạnh của toàn xã hội: Quân đội, Công an, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ... tham gia bằng nhiều hình thức (góp công, góp sức, ngày công lao động). Trong đó, Quân đội, Công an sẵn sàng đảm nhận thi công tại những nơi hiểm trở, khó khăn nhất.
Ủy ban nhân dân 22 tỉnh, thành phố biên giới chịu trách nhiệm toàn diện về danh mục, nhu cầu, phương án và tiến độ đầu tư
Để bảo đảm khẩn trương triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả chiến dịch xây dựng trường học tại các xã biên giới Thủ tướng yêu cầu các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan liên quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có biên giới tập trung chỉ đạo quán triệt và thực hiện nghiêm các nhiệm vụ đã đề ra theo tinh thần: rõ người, rõ việc, rõ thời gian, rõ kết quả, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền", trong đó:
Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp, hướng dẫn các tỉnh, thành phố có xã biên giới đất liền rà soát nhu cầu thực tế của 248 xã biên giới đất liền để đầu tư đúng, trúng, hiệu quả, chịu trách nhiệm về số liệu báo cáo và nội dung đề xuất; thành lập ngay một Tổ công tác liên ngành đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo là Tổ trưởng để kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc.
Đồng thời, Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan đôn đốc, giám sát, kiểm tra tiến độ triển khai xây dựng các trường theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, kịp thời; phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các địa phương phát động chiến dịch xây dựng trường học cho các xã biên giới trước ngày 30/8/2025.
Thủ tướng yêu cầu Ủy ban nhân dân 22 tỉnh, thành phố có xã biên giới đất liền chịu trách nhiệm toàn diện về xác định danh mục, nhu cầu, phương án đầu tư, nội dung, tiến độ và chất lượng thực hiện đầu tư; quy hoạch, tìm địa điểm, chuẩn bị mặt bằng với diện tích phù hợp, bảo đảm hạ tầng giao thông, điện, nước, viễn thông thuận lợi và kêu gọi người dân hiến đất; rà soát, tổng hợp Danh mục dự án đầu tư và chi phí đầu tư gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính cân đối, bố trí; đăng ký với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính số lượng, địa điểm, quy mô, nội dung đầu tư xây dựng trường và cam kết hoàn thành đúng thời hạn; tổ chức thực hiện đầu tư các dự án cụ thể; bố trí quỹ đất đủ điều kiện xây dựng các trường phù hợp với địa hình, thổ nhưỡng, địa chất…
Tiết kiệm ngay từ đầu năm 10% kinh phí chi thường xuyên của tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương
Thủ tướng giao Bộ Tài chính chịu trách nhiệm tính toán, cân đối, bố trí và phân bổ nguồn kinh phí đầy đủ, kịp thời, tiết kiệm ngay từ đầu năm 10% kinh phí chi thường xuyên của tất cả các cơ quan, đơn vị, địa phương; hướng dẫn Ủy ban nhân dân 22 tỉnh, thành phố có xã biên giới, các chủ đầu tư xác định, thực hiện cơ chế chỉ định thầu, giao thầu, giao việc để triển khai thi công bảo đảm tiến độ, chất lượng, hiệu quả. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các địa phương rà soát, tổng hợp danh mục, kinh phí các dự án đầu tư để cân đối, bố trí vốn cho các địa phương; tổng hợp, cân đối bố trí kinh phí duy trì hoạt hoạt động thường xuyên hằng năm của các trường khi hoạt động.
Thủ tướng giao Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm ban hành các nguyên tắc và thiết kế mẫu trường lớp theo hướng mở, đa dạng, phù hợp với điều kiện địa hình, địa chất, yếu tố tự nhiên, văn hóa các vùng miền, các địa phương, các địa điểm xây dựng bảo đảm khai thác tối đa điều kiện tự nhiên, lưu ý khả năng ứng phó thiên tai, biến đổi khí hậu.
Các Bộ Quốc phòng, Bộ Công an xây dựng kế hoạch cụ thể để huy động lực lượng, nguồn lực tham gia vào chương trình này.
Thủ tướng đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao tổ chức chỉ đạo việc thực hiện chương trình này bảo đảm kịp thời, hiệu quả; có kế hoạch cụ thể về việc huy động sự tham gia của toàn xã hội; xây dựng cơ chế tiếp nhận, công khai, giám sát nguồn lực xã hội hóa đúng mục đích, tránh hình thức.
Việc xây dựng trường học tại các xã biên giới là việc mới, việc lớn và có ý nghĩa sâu sắc, cần vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm và điều chỉnh phù hợp, bảo đảm hiệu quả, bền vững; tinh thần chung là phải làm cho bằng được, với trách nhiệm cao nhất, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì tương lai con em đồng bào các dân tộc nơi biên cương của Tổ quốc. Việc triển khai phải đảm bảo kịp thời, đồng bộ, hiệu quả, minh bạch, không hình thức, không dàn trải và nhất định thành công.

Kết luận của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Phiên họp thứ hai ngày 04 tháng 8 năm 2025
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 439/TB-VPCP ngày 22/8/2025 kết luận của Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn tại Phiên họp thứ hai ngày 04 tháng 8 năm 2025.
Thông báo nêu: Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, với những đột phá vượt bậc trong các lĩnh vực công nghệ chiến lược, đặc biệt là công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo. Ngành công nghiệp bán dẫn thế giới đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng nhanh, đi kèm quá trình tái cấu trúc sâu rộng cả về công nghệ và chuỗi cung ứng. Tuy nhiên, ngành này cũng đang đối mặt với nhiều rủi ro, nhất là nguy cơ đứt gãy chuỗi cung ứng do cạnh tranh địa chính trị giữa các quốc gia và khu vực.
Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tính chiến lược, chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa chủ yếu vào lao động giá rẻ, gia công, lắp ráp và khai thác tài nguyên sang mô hình tăng trưởng mới, lấy khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số làm động lực chủ yếu, then chốt cho phát triển nhanh và bền vững.
Tư duy phát triển ngành công nghiệp bán dẫn có nhiều đổi mới
Trong bối cảnh ngành công nghiệp bán dẫn được xác định là mắt xích then chốt của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và cuộc cạnh tranh làm chủ công nghệ diễn ra ngày càng quyết liệt giữa các quốc gia, các chủ trương của Đảng về phát triển công nghiệp bán dẫn đã được ban hành kịp thời, đặc biệt là các chỉ đạo quyết liệt của Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Tô Lâm, Ban Chỉ đạo Trung ương về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã nghiêm túc quán triệt, tổ chức thực hiện, tạo chuyển biến tích cực, đạt được một số kết quả nổi bật đáng ghi nhận: (1) Nhận thức trong toàn hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và xã hội được nâng cao; (2) Tư duy phát triển có nhiều đổi mới, thể hiện qua cách tiếp cận, cách làm, cách triển khai chính sách; (3) Công tác chỉ đạo, điều hành được thực hiện quyết liệt hơn; (4) Hệ thống thể chế, cơ chế chính sách bước đầu được cải thiện; (5) Công tác đào tạo nguồn nhân lực và phát triển hạ tầng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng ghi nhận; (6) Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bán dẫn tiếp tục được mở rộng; (7) Một số tập đoàn, đối tác quốc tế có uy tín quan tâm, xúc tiến các hoạt động hợp tác; (8) Các viện nghiên cứu, trường đại học, địa phương đã chủ động vào cuộc, góp phần tạo nền tảng quan trọng cho phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Bên cạnh những kết quả tích cực, vẫn còn một số hạn chế, bất cập cần sớm khắc phục trong thời gian tới: (1) Việc huy động nguồn lực, đặc biệt là về vốn đầu tư cho phát triển ngành công nghiệp bán dẫn còn nhiều khó khăn; (2) Thể chế, cơ chế, chính sách liên quan đến ngành bán dẫn vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập, chưa thực sự đồng bộ, chưa tạo được môi trường đủ thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển nhanh; (3) Tiến độ triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng gay gắt; (4) Thiếu các yếu tố tạo đột phá mạnh mẽ về công nghệ, sản phẩm, mô hình tổ chức và cách thức huy động nguồn lực; (5) Hợp tác, liên kết giữa ba nhà (Nhà nước - Nhà trường - Nhà doanh nghiệp) còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả; (6) Việc chuyển giao công nghệ còn hạn chế, chưa có nhiều kết quả thực chất do các vướng mắc về rào cản kỹ thuật.
Định hướng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn
Với định hướng chiến lược là thay đổi trạng thái từ ưu đãi để thu hút đầu tư sang ưu đãi để thu hút chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ cao dựa trên nền tảng ổn định và phát triển xanh, bền vững, phát triển công nghệ cao dựa trên sự phát triển nhanh, bền vững của các công nghệ truyền thống, đồng thời đảm bảo điều kiện đạt được mục tiêu đã đặt ra tại các Chương trình, Chiến lược đã ban hành, đặc biệt là mục tiêu thiết kế, chế tạo, kiểm thử được một số chip bán dẫn cần thiết vào năm 2027, cần bám sát các quan điểm, định hướng phát triển sau:
1. Quá trình phát triển ngành công nghiệp bán dẫn phải đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ nhỏ đến lớn; cần có các giải pháp tăng tốc, bứt phá, tạo ra các đột phá mới với tinh thần "theo kịp, tiến cùng và vượt lên" trong phát triển công nghệ.
2. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức, đơn vị có liên quan cần căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình chủ động, sáng tạo triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ được giao tại Chiến lược phát triển ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050, Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050.
3. Phát triển ngành công nghiệp bán dẫn là nhiệm vụ trọng tâm, cần được tổ chức triển khai đồng bộ, bài bản, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân, với tinh thần quyết liệt, đột phá, hiệu quả và bền vững, với phương châm "cả nước là một đoàn quân thống nhất, hành quân thần tốc, táo bạo, đánh nhanh, đánh mạnh, đánh chắc thắng".
4. Phát triển hệ sinh thái ngành công nghiệp bán dẫn phải bảo đảm tính bao trùm, toàn diện, đồng bộ, thực chất và hiệu quả.
5. Khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, đặc biệt là các chính sách ưu đãi, tháo gỡ các nút thắt về hạ tầng, thể chế, nguồn nhân lực, với tinh thần "thể chế thông thoáng, hạ tầng thông suốt, con người thông minh".
6. Chính sách ưu đãi cần chuyển trạng thái từ ưu đãi để thu hút đầu tư sang ưu đãi để thu hút chuyển giao công nghệ.
7. Đẩy mạnh phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước – Nhà trường – Nhà doanh nghiệp; kết nối chặt chẽ giữa hoạt động kiến tạo – nghiên cứu – phát triển – sản xuất, kinh doanh.
8. Thúc đẩy phát triển cân bằng, bình đẳng giữa khu vực công và tư, mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng cơ chế chính sách hợp tác công tư phù hợp với đặc thù ngành bán dẫn.
9. Phát triển thị trường bán dẫn cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, tuân thủ đúng quy luật thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả.
Với các định hướng trên, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn yêu cầu Ban Chỉ đạo bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra để tổ chức đôn đốc, chỉ đạo, giám sát, kiểm tra việc triển khai thực hiện của các bộ, ngành, địa phương và cơ quan liên quan. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các cơ quan liên quan khẩn trương đề xuất nội dung kiện toàn Ban Chỉ đạo, bảo đảm phù hợp, hiệu quả, trong đó chuyển cơ quan thường trực từ Bộ Tài chính sang Bộ Khoa học và Công nghệ; báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8 năm 2025.
Hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực bán dẫn
Các bộ, ngành, địa phương căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, chủ động triển khai hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phát triển ngành công nghiệp bán dẫn theo đúng chủ trương, định hướng tại Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2050 và Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050; định kỳ hàng quý hoặc khi có yêu cầu đột xuất, các bộ, ngành, địa phương báo cáo Ban Chỉ đạo kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, các bộ, ngành, địa phương chủ động nghiên cứu, ban hành hoặc đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành các cơ chế, chính sách phù hợp để hỗ trợ doanh nghiệp trong lĩnh vực bán dẫn và thu hút đầu tư trong nước, quốc tế vào ngành công nghiệp bán dẫn.
Các bộ, ngành, địa phương chủ động nghiên cứu, xử lý các kiến nghị của các địa phương, doanh nghiệp, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến thể chế, cơ chế, chính sách; chủ động phối hợp với các bộ, ngành, viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp trong tổ chức triển khai các hoạt động liên quan tại địa phương, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, đúng định hướng.
Bộ Tài chính tiếp tục tập trung đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bán dẫn, ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu; xây dựng Quyết định về tín dụng đối với học sinh, sinh viên, học viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán, trình Thủ tướng Chính phủ trong Quý IV năm 2025.
Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan liên quan rà soát, đôn đốc việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp phát triển ngành công nghiệp bán dẫn theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trong đó tập trung thực hiện các giải pháp, nhiệm vụ được giao tại Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050; báo cáo Ban Chỉ đạo kết quả thực hiện, bảo đảm kịp thời, hiệu quả; chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ và các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất, ban hành các cơ chế, chính sách phát triển ngành công nghiệp bán dẫn; hoàn thành, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý IV năm 2025.
Bộ Ngoại giao tăng cường hợp tác song phương, đa phương về bán dẫn; huy động nguồn lực quốc tế để hỗ trợ phát triển và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành bán dẫn; tích cực truyền thông, lan tỏa hình ảnh Việt Nam là điểm đến của ngành công nghiệp bán dẫn; chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài thúc đẩy hợp tác quốc tế về công nghiệp bán dẫn, cập nhật danh sách chuyên gia, nhân tài người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến lĩnh vực bán dẫn.
Bộ Giáo dục và Đào tạo bám sát thực hiện các nhiệm vụ về tổ chức đào tạo trong Chương trình Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, định hướng 2050, trong đó chỉ đạo đẩy mạnh mô hình liên kết giữa nhà nước, nhà trường, doanh nghiệp trong đào tạo nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn, bảo đảm hiệu quả, chất lượng.
Đề xuất cơ chế giá điện phù hợp cho các nhà máy sản xuất chip bán dẫn
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan, đảm bảo nguồn điện ổn định, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, mạnh của ngành công nghiệp bán dẫn, trong đó ưu tiên sử dụng điện sạch.
Đồng thời, khẩn trương nghiên cứu, đề xuất cơ chế giá điện phù hợp cho các nhà máy sản xuất chip bán dẫn và thiết bị điện tử tại Việt Nam, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong Quý III năm 2025; khẩn trương nghiên cứu, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị định số 57/2025/NĐ-CP quy định cơ chế mua bán điện trực tiếp giữa đơn vị phát điện năng lượng tái tạo và khách hàng sử dụng điện lớn, Nghị định số 58/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Điện lực về phát triển điện năng lượng tái tạo, điện năng lượng mới và các văn bản quy định về điện tự sản xuất, tự tiêu thụ, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong tháng 8 năm 2025.
Bộ Xây dựng có giải pháp đảm bảo hạ tầng giao thông, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển, giao hàng và dịch vụ logistics của các doanh nghiệp sản xuất trong lĩnh vực bán dẫn; nghiên cứu, ban hành kế hoạch thúc đẩy ứng dụng công nghiệp chip bán dẫn phục vụ cơ sở hạ tầng giao thông, giao thông thông minh, đô thị thông minh, hoàn thành trong Quý IV năm 2025.
Thúc đẩy nội địa hóa chuỗi cung ứng ngành công nghiệp bán dẫn
Bộ Nông nghiệp và Môi trường nghiên cứu, đề xuất bổ sung khung pháp lý về danh mục khoáng sản chiến lược phục vụ phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét trong Quý III năm 2025.
Tập trung thúc đẩy công tác điều tra, đánh giá khoáng sản chiến lược nhằm đảm bảo chủ động nguồn nguyên liệu đầu vào, giảm phụ thuộc vào bên ngoài và thúc đẩy nội địa hóa chuỗi cung ứng ngành công nghiệp bán dẫn. Tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế để tiếp nhận công nghệ chế biến ngành nguyên liệu này. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả trong Quý IV năm 2025; nghiên cứu, đề xuất cơ chế cấp phép đặc biệt cho khai thác và chế biến sâu các mỏ khoáng sản phục vụ ngành công nghiệp bán dẫn, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét trong Quý IV năm 2025.
Bộ Tư pháp chủ động phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, các cơ quan liên quan nghiên cứu, rà soát, đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, tập trung tháo gỡ các vướng mắc, tạo hành lang pháp lý thuận lợi phục vụ phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, hoàn thành trong Quý IV năm 2025.
Xây dựng chính sách đãi ngộ đội ngũ cán bộ ngành công nghiệp bán dẫn
Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng, đề xuất cơ chế, chính sách thu hút, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phục vụ sự phát triển ngành công nghiệp bán dẫn.
Các cơ quan thông tấn, báo chí chủ động, đa dạng hóa nội dung truyền thông, bảo đảm thông tin phong phú, sinh động, sáng tạo, phù hợp với từng nhóm đối tượng tiếp nhận; thường xuyên cập nhật, phản ánh đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, hình ảnh về chủ trương, chính sách, hoạt động phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, góp phần nâng cao nhận thức xã hội, khơi dậy tinh thần đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực trong và ngoài nước tham gia phát triển ngành.

Kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030
Văn phòng Chính phủ ban hành Thông báo số 441/TB-VPCP ngày 22/8/2025 kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025, định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030 (Chương trình).
Chương trình hoàn thành và vượt mức 06/09 nhóm mục tiêu đề ra
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 đã hoàn thành và vượt mức 06/09 nhóm mục tiêu đề ra, trong đó đáng chú ý là chỉ tiêu giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người đã tăng khá và vượt kế hoạch, chất lượng tiếp cận các dịch vụ chất lượng như giáo dục, y tế, các nguồn lực phát triển đã đảm bảo tốt hơn, bình đẳng hơn, đời sống vật chất và tinh thần của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng lên đáng kể so với trước. Đây là kết quả quan trọng, cơ bản, rất đáng biểu dương trong điều kiện giai đoạn 2021-2025 có nhiều khó khăn, thách thức như dịch bệnh COVID–19; tình hình chính trị thế giới có nhiều biến động; chiến tranh thương mại, thị trường thế giới có nhiều bất ổn; thiên tai, lũ lụt gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản cho nhân dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Trong bối cảnh đó, thực hiện chỉ đạo đúng đắn của Bộ Chính trị, Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã có sự quan tâm đặc biệt cho sự nghiệp phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đồng thời Ban Chỉ đạo Trung ương, Bộ Dân tộc và Tôn giáo, các cấp, các ngành, đồng bào, chiến sỹ và cả hệ thống chính trị đã vào cuộc mạnh mẽ, đồng bộ, với tinh thần quyết tâm cao, không quản ngại gian khó.
Do đó, Chương trình giai đoạn I đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn tiếp theo gồm: (1) Chương trình là một chủ trương lớn, xác định rất đúng và trúng các nhóm mục tiêu cụ thể; (2) Nội dung của Chương trình hợp ý Đảng với lòng dân; (3) Chương trình là quyết sách lớn, thể hiện được chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước là chính sách đi đôi với ngân sách; (4) Giải pháp tổ chức phù hợp, thực hiện chính sách kết hợp với tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số cùng tham gia; (5) Chương trình được nhân dân đồng tình, doanh nghiệp ủng hộ, quân đội, công an đã vào cuộc tích cực, tạo ra hiệu quả tốt; (6) Tiếp cận giáo dục, y tế, văn hóa – xã hội ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng bình đẳng hơn; (7) Phát triển bao trùm, toàn diện, bền vững hơn; (8) Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được nâng cao.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tổ chức triển khai thực hiện Chương trình vẫn còn một số hạn chế, bất cập như: Chương trình còn manh mún, chia cắt, thiếu trọng tâm, trọng điểm; phân cấp, phân quyền chưa triệt để; thủ tục hành chính còn rườm rà; tính chủ động, tích cực, tự lực, tự cường của một bộ phận đồng bào chưa cao, vẫn còn tiểm ẩn nhiều nguy cơ tái nghèo...
Tạo điều kiện để đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên làm giàu bền vững
Thủ tướng Chính phủ đặt ra mục tiêu tổng quát cho Chương trình trong thời gian tới là: Cụ thể hóa chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, theo tinh thần năm sau cao hơn năm trước, nhiệm kỳ sau cao hơn nhiệm kỳ trước, giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước.
Tạo ra được phong trào, xu thế của người dân vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải tự lực, tự cường, vươn lên thoát nghèo, làm giàu chính đáng từ bàn tay, khối óc, mảnh đất, khung trời của mình.
Các mục tiêu cụ thể thì cần tính toán kỹ lưỡng, trong đó bảo đảm tiếp cận bình đẳng về giáo dục, y tế, văn hóa – xã hội, về các nguồn lực của đất nước; tạo ra nhiều công ăn, việc làm, sinh kế của người dân để vươn lên thoát nghèo, vươn lên làm giàu bền vững; các mục tiêu phải thiết thực, khả thi và dễ kiểm tra, dễ giám sát, dễ hiểu, dễ làm, dễ đánh giá với tinh thần không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển của đất nước.
Tăng 10-15% nguồn lực cho Chương trình
Với mục tiêu trên, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục nâng cao về nhận thức: Đầu tư cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi là đầu tư cho phát triển, không những là trách nhiệm, nghĩa vụ cao cả của mình mà còn là tình cảm, mệnh lệnh của trái tim, bằng tình dân tộc, nghĩa đồng bào, sự chia sẻ, tính nhân văn cao đẹp để làm tất cả vì đồng bào, nói thật, làm thật và hiệu quả thật, để không ai bị bỏ lại phía sau.
Tiếp tục hoàn thiện về thể chế, cơ chế, chính sách theo chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tổ chức thực hiện của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Duy trì độc lập Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm bình đẳng nhưng cần đặc biệt chú ý đến các dân tộc thiểu số dễ bị tổn thương.
Cân đối ưu tiên bố trí nguồn lực cho Chương trình trong giai đoạn 2026-2030 tăng khoảng 10-15% so với giai đoạn 2021-2025. Huy động các nguồn vốn Trung ương, địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện Chương trình.
Thiết kế triển khai thực hiện Chương trình theo tinh thần: Giao cho các địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm; Trung ương chủ yếu thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, bố trí nguồn lực hợp pháp và tập trung xây dựng cơ chế, chính sách về tạo công ăn, việc làm, sinh kế cho người dân; thực hiện mục tiêu tiếp cận bình đẳng y tế, giáo dục, văn hóa - xã hội, nhất là y tế cơ sở, y tế dự phòng; giáo dục tập trung xây dựng, hoàn thiện đồng bộ các trường học, trong đó xây dựng bổ sung hoàn thiện hệ thống trường dân tộc nội trú ở các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bộ với việc xây dựng 248 trường ở khu vực các xã biên giới đang triển khai; lưu ý đến nguồn lực con người, ưu tiên đầu tư đào tạo đội ngũ y, bác sỹ, giáo viên; giành nguồn lực để phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, điện, nước, viễn thông, đảm bảo tính bền vững trong phát triển của địa bàn các xã, thôn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Xây dựng cơ chế chính sách phát triển liên kết cộng đồng
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xây dựng cơ chế chính sách phát triển liên kết cộng đồng, liên kết giữa cộng đồng dân tộc thiểu số với cộng đồng dân tộc người Kinh, hình thành các hợp tác xã, các doanh nghiệp, phát triển từ hộ kinh doanh lên doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ lên doanh nghiệp lớn. Chú trọng phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Thiết kế chương trình trong đó đầu tư các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng gắn với thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Xây dựng các chính sách an sinh thiết thực, cụ thể, bám sát tình hình thực tế. Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp tại vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Gắn kết giữa phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh – quốc phòng, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân vững chắc. Phát huy hiệu quả, tính tiên phong, tính gương mẫu, uy tín của già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Đầu tư cho ngân sách thực hiện các nhiệm vụ Đảng và Nhà nước giao.
Xây dựng gói tín dụng ưu tiên
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu phải có chính sách ưu tiên đầu tư thực hiện các Nghị quyết "bộ tứ trụ cột: của Bộ Chính trị (Nghị quyết 57 về thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, Nghị quyết 59 về chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, Nghị quyết 66 về đổi mới toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật, Nghị quyết 68 về phát triển kinh tế tư nhân). Xác định đây là cơ sở, tiền đề để vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi cùng chung tay, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, biến khát vọng thành hành động, biến tiềm năng thành sức mạnh thực tế, để cùng đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
Phát huy, bảo tồn, phát triển văn hóa đậm đà bản sắc của các dân tộc, trong đó giữ gìn chữ viết, tiếng nói, văn hóa dân tộc là vấn đề quan trọng, góp phần vào phát triển công nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí; biến văn hóa thành nguồn lực, biến di sản thành tài sản, thành sức mạnh nội sinh để đồng bào, nhân dân được hưởng thụ từ chính nền văn hóa của mình.
Xây dựng gói tín dụng ưu tiên (Ngân hàng Nhà nước chủ trì), đồng thời có chính sách về tài khóa, tiếp cận đất đai, giảm thuế, phí, lệ phí. Kết hợp cả chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, để đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi thoát nghèo bền vững và làm giàu chính đáng.
Kết cấu lại nội dung Chương trình theo hướng tập trung
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Dân tộc và Tôn giáo chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan trung ương khẩn trương tham mưu kết cấu lại nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2026 - 2030 theo hướng tập trung nội dung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng thực hiện, hiệu quả cao; khẩn trương trình Chính phủ hồ sơ Nghị định quy định tiêu chí phân định vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2026 - 2030 để ban hành trong tháng 8 năm 2025.
Bộ Tài chính tham mưu, bố trí đủ nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn II, đảm bảo các mục tiêu đề ra của Chương trình.
Các bộ, cơ quan chủ các dự án, tiểu dự án thành phần của Chương trình: căn cứ nội dung Kết luận số 177-KL/TW ngày 11 tháng 7 năm 2025 của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về tiếp tục xây dựng tổ chức, hoạt động của đơn vị hành chính 02 cấp bảo đảm thông suốt, hiệu quả; Công điện số 110/CĐ-TTg ngày 17 tháng 7 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ về tiếp tục tập trung triển khai các Nghị quyết của Trung ương, Kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về sắp xếp tổ chức bộ máy và đơn vị hành chính; để tiếp tục triển khai đồng bộ, hiệu quả, phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu của Chương trình. Hướng dẫn các địa phương hiểu đúng, đầy đủ và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các nội dung của Chương trình.
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các xã tích cực rà soát và khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện các dự án, tiểu dự án của Chương trình trên địa bàn các xã sau khi sáp nhập; đẩy nhanh tiến độ giải ngân thực hiện các dự án, tiểu dự án đã và đang triển khai thực hiện để phấn đấu hoàn thành toàn bộ các mục tiêu của giai đoạn I Chương trình; đôn đốc các xã, thôn, bản đánh giá, đề xuất nhu cầu đầu tư các nội dung của Chương trình giai đoạn II từ năm 2026 đến năm 2030...

Thành lập Hội đồng thẩm định nhiệm vụ lập điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà ký Quyết định số 1803/QĐ-TTg ngày 22/8/2025 thành lập Hội đồng thẩm định nhiệm vụ lập điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Hội đồng).
Thành viên của Hội đồng
Chủ tịch Hội đồng là Bộ trưởng Bộ Xây dựng.
Phó Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Xây dựng.
Các thành viên của Hội đồng là đại diện các Bộ: Tài chính; Nông nghiệp và Môi trường; Quốc phòng; Công an; Công Thương; Văn hóa, Thể thao và Du lịch; đại diện Ủy ban nhân dân các tỉnh: Quảng Trị; Quảng Ngãi; Khánh Hòa.
Ngoài ra, Hội đồng còn có 02 thành viên là chuyên gia về quy hoạch (Bộ Xây dựng có trách nhiệm mời 02 chuyên gia trong lĩnh vực hàng không dân dụng tham gia Hội đồng).
Cơ quan thường trực Hội đồng là Vụ Kế hoạch - Tài chính thuộc Bộ Xây dựng.
Nhiệm vụ của Hội đồng
Hội đồng có nhiệm vụ xem xét, thẩm định nhiệm vụ lập điều chỉnh Quy hoạch hệ thống cảng hàng không; chịu trách nhiệm về kết quả thẩm định, báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thẩm định để làm căn cứ xem xét, phê duyệt nhiệm vụ lập điều chỉnh quy hoạch.
Hội đồng hoạt động theo hình thức kiêm nhiệm và tự giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Kinh phí hoạt động của Hội đồng theo quy định của pháp luật về Quy hoạch.
Quyết định này có hiệu lực từ ngày 22/8/2025.
Thượng tướng Nguyễn Quang Ngọc giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Thượng tướng Nguyễn Quang Ngọc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam được bổ nhiệm giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Cụ thể, ngày 22/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 1798/QĐ-TTg bổ nhiệm đồng chí Thượng tướng Nguyễn Quang Ngọc, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Quyết định có hiệu lực từ ngày 22/8/2025./.

Ý kiến ()